Maldives

Giới thiệu về Cộng Hòa Maldives


Maldives nằm ở phía nam quần đảo Lakshadweep thuộc Ấn Độ, và cách khoảng 700 kilômét (435 mi) phía tây nam Sri Lanka. Hai mươi sáu đảo san hô của Maldives bao vòng quanh một lãnh thổ gồm 1.192 đảo nhỏ, khoảng hai trăm đảo trong số này có các cộng đồng địa phương sinh sống.

Cái tên "Maldives" xuất phát từ Maale Dhivehi Raajje ("Vương quốc đảo [dưới sự cai trị của] Malé")". Một số học giả tin rằng cái tên "Maldives" xuất phát từ từ maladvipa trong tiếng Phạn, có nghĩa "vòng đảo", hay từ mahila dvipa, có nghĩa "đảo của phụ nữ", những những tên này không xuất hiện trong văn học Phạn cổ.

Thay vào đóc, các văn bản tiếng Phạn cổ có đề cập tới "Trăm nghìn hòn đảo" (Lakshadweep); một cái tên chung có thể không chỉ bao gồm Maldives, mà cả Laccadives và nhóm đảo Chagos. Một số lữ khách người Ả Rập thời Trung Cổ như Ibn Batuta đã gọi các đảo là "Mahal Dibiyat" từ từ Mahal ("cung điện") trong tiếng Ả Rập". Đây là cái tên hiện được viết trong cuộn giấy biểu tượng quốc gia của Maldive.

Các công dân là tín đồ Phật giáo, có thể từ thời Ashoka, ở thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Đạo Hồi được đưa vào năm 1153. Maldives sau đó rơi vào vùng ảnh hưởng của người Bồ Đào Nha (1558) và các đế chế trên biển của Hà Lan (1654). Và vào năm 1887 nó trở thành một vùng bảo hộ của Anh.

Năm 1965, Maldives giành được độc lập từ Anh Quốc (ban đầu với cái tên "Quần đảo Maldive"), và vào năm 1968 chính thể Vương quốc Sultan được thay thế bằng một nền Cộng hòa. Tuy nhiên, trong ba mươi tám năm, Maldives chỉ có hai Tổng thống, dù những giới hạn chính trị đã được nới lỏng một chút gần đây.

Maldives là quốc gia nhỏ nhất Châu Á về dân số. Đây cũng là quốc gia Hồi giáo đa số nhỏ nhất thế giới.

Lịch sử

Những cuộc nghiên cứu so sánh về khẩu ngữ truyền thống Maldives cho thấy khả năng những người định cư đầu tiên tại đây là người Dravidian đến từ các bờ biển gần nhất, có lẽ là những ngư dân từ những vùng biển phía tây nam Tiểu lục địa Ấn Độ và những bờ biển phía tây Sri Lanka. (Những người dân đầu tiên của Maldives phải tới đây từ nhiều thiên niên kỷ trước, vì không hề có một truyền thuyết thực sự liên quan tới việc định cư trên những hòn đảo.)

Phật giáo đã xuất hiện tại Maldives từ thời kỳ mở mang lãnh thổ của Hoàng đế Ashoka và trở thành tôn giáo chủ chốt của người dân Maldives cho tới tận thế kỷ thứ 12 sau Công Nguyên.

Phương Tây quan tâm tới những tàn tích khảo cổ của những nền văn hóa thời kỳ sớm tại Maldives bắt đầu từ H.C.P. Bell, một vị uỷ viên hội đồng Anh thuộc Ceylon Civil Service. Bell bị đắm tàu dạt vào quần đảo năm 1879, và đã quay trở lại đây tìm hiểu các di tích Phật giáo cổ. Ông đã nghiên cứu những ụ đất cổ, được gọi là havitta hay ustubu (những tên này xuất phát từ từ chaitiya hay tháp) (Bản mẫu:Lang-dv) trong tiếng Maldives, có mặt trên nhiều hòn đảo.

Dù Bell quả quyết rằng người Maldives cổ theo Phật giáo Tiểu thừa, nhiều tàn tích khảo cổ học Phật giáo địa phương hiện còn ở Bảo tàng Malé thực tế lại là hình tượng Đại thừa và Vajrayana.

Theo truyền thuyết trong Văn học dân gian Maldives, một hoàng tử tên là Koimala từ Ấn Độ hay Sri Lanka đã tới Maldives từ miền Bắc (Ihavandhu) và trở thành vị vua đầu tiên từ House of Theemuge. Trước đó Maldives đã có dân cư sinh sống là những người có nguồn gốc Dravidian từ các bờ biển gần đó, như nhóm người hiện được gọi là Giravaaru họ cho rằng có tổ tiên là những người Tamil cổ.

Dường như người Giraavaru không phải là những người duy nhất từng định cư tại Maldives. Điều quan trọng từ sự có mặt của họ bởi họ đã được đề cập tới trong truyền thuyết về sự thành lập thủ đô và đã từng xưng vương tại Malé. Người Giraavaru chỉ là một trong những cộng đồng sống tại đây từ trước khi có sự xuất hiện của Phật giáo và sự xuất hiện của Vương triều Bắc cũng như sự thành lập một chính thể tập trung cùng các định chế hành chính.

Các vị vua Maldives thời trước đã truyền bá Phật giáo và những văn bản cùng những thành tựu nghệ thuật đầu tiên của Maldives đã là những công trình kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc phát triển cao từ thời kỳ đó. Việc cải sang Đạo Hồi đã được đề cập tới trong những chỉ dụ cổ được viết trên những tấm đĩa đồng từ cuối thế kỷ 12 sau Công Nguyên. Cũng có một huyền thoại nổi tiếng trên hòn đảo về một vị thánh ngoại lai (Ba Tư hay Marốc theo từng phiên bản khác nhau) người đã chinh phục một con quỷ tên là Rannamaari.

Qua nhiều thế kỷ, hòn đảo này đã được nhiều người đặt chân tới và sự phát triển của nó đã bị ảnh hưởng từ các thuỷ thủ và các nhà buôn từ các nước thuộc vùng Biển Ả Rập và Vịnh Bengal. Cho tới những thời gian gần đây, những tên cướp biển Mappila từ Bờ biển Malabar – bang Kerala hiện nay ở Ấn Độ – đã luôn cướp phá quần đảo.

Dù được cai trị như một vương quốc Hồi giáo độc lập từ năm 1153 tới năm 1968, Maldives đã là vùng bảo hộ của Anh từ năm 1887 cho tới ngày 25 tháng 7 năm 1965. Năm 1953, đã có một nỗ lực sớm chết yểu nhằm thành lập một nền cộng hòa, nhưng cuối cùng chính thể vương quốc được tái lập. Năm 1959, để phản đối chủ nghĩa tập trung trung ương của Nasir, người dân trên ba hòn đảo xa nhất phía nam đã nổi lên chống chính phủ.

Họ đã thành lập nước Cộng hòa Suvadive Thống nhất và bầu Abdullah Afeef lên làm tổng thống, lựa chọn Hithadhoo là thủ đô của nhà nước cộng hòa.

Sau khi giành được độc lập từ Anh năm 1965, chính thể vương quốc tiếp tục hoạt động trong ba năm tiếp theo dưới sự cai trị của Vua Muhammad Fareed. Ngày 11 tháng 11 năm 1968, vương triều bị xoá bỏ và thay thế bằng chính thể cộng hòa, dù đây là sự thay đổi địa phương không dẫn tới những thay đổi lớn khác trong các cơ cấu chính phủ.

Tên chính thức của đất nước được đổi từ Quần đảo Maldive thành Maldives theo hướng cải cách. Du lịch bắt đầu phát triển trên quần đảo này trong khoảng năm năm sau đó, từ đầu thập niên 1970.

Tháng 11 năm 1988, một nhóm người Maldives do Mr. Lutfee lãnh đạo đã sử dụng một nhóm người Tamil vụ lợi từ Sri Lanka tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Gayyoom. Sau khi chính phủ Maldives lên tiếng yêu cầu được giúp đỡ, quân đội Ấn Độ đã can thiệp chống lại những kẻ hám lợi này nhằm tái lập quyền lực cho Gayyoom.

Trong đêm ngày 3 tháng 11 năm 1988, Không quân Ấn Độ đã đưa một tiểu đoàn lính dù trực tiếp từ Agra vượt khoảng cách hơn 2.000 kilômét (1.240 dặm) tới Maldives. Lính dù Ấn Độ đổ bộ xuống Hulule và chiếm sân bay cũng như tái lậ quyền lực chính phủ tại Malé trong vòng vài giờ. Chiến dịch ngắn, không đổ máu này được gọi là Chiến dịch Cactus, cũng có sự tham gia của Hải quân Ấn Độ.

Ngày 26 tháng 12 năm 2004, Maldives đã bị tàn phá bởi một trận sóng thần sau trận Động đất Ấn Độ Dương năm 2004. Chỉ chín hòn đảo thoát khỏi cơn sóng thần này[cần dẫn nguồn], trong khi năm mươi bảy hòn đảo phải chịu những thiệt hại nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, mười bốn hòn đảo phải sơ tán hoàn toàn, và sáu hòn đảo thiệt hại một phần mười nhân mạng.

Hai mươi mốt hòn đảo du lịch khác bị buộc phải đóng cửa vì những thiệt hại vật chất. Tổng thiệt hại ước tính hơn 400 triệu dollar hay khoảng 62% GDP. Tổng cộng 108 người, gồm cả sáu người ngoại quốc, được thông báo đã thiệt mạng trong cơn sóng thần. Hiệu ứng phá hoại của những cơn sóng với những hòn đảo thấp bởi người dân ở đây không có những khu đất cao để có thể lên lánh nạn trước những cơn sóng dữ. Những con sóng cao nhất lên tới 14 feet.

Phân chia hành chính

Maldives có hai mươi sáu đảo san hô tự nhiên, được chia thành hai mươi mốt khu vực hành chính (hai mươi đảo san hô hành chính và thành phố Malé).

Ngoài một cái tên, mỗi khu vực hành chính được xác định bởi những con chữ mã của Maldives, như "Haa Alif" cho Thiladhunmati Uthuruburi (Thiladhunmathi Bắc); và bằng một chữ mã Latinh.

Chữ đầu tiên tương ứng với tên địa lý của Maldives cho đảo san hô. Chữ thứ hai là một mã thích hợp. Nó được sử dụng nhằm làm cho việc liên lạc viễn thông giữa các đảo san hô và cơ quan hành chính trung ương dễ dàng hơn.

Bởi có một số đảo ở những đảo san hô có tên giống nhau, vì mục đích hành chính mã này sẽ được nhắc tới ở phía trước tên đảo, ví dụ: Baa Funadhoo, Kaafu Funadhoo, Gaafu-Alifu Funadhoo. Bởi đa số đảo san hô đều có cái tên địa lý rất dài, nó cũng được dùng bất cứ khi nào người ta muốn có một cái tên ngắn hơn, ví dụ trong những cái tên website của đảo san hô.

Việc đặt tên mã khiến những người nước ngoài gặp nhiều khó khăn, bởi họ không hiểu mục đích sử dụng của những cái tên đó và đã quên mất tên thực bằng tiếng Maldives trong những cuốn sách du lịch.

Người Maldives có thể sử dụng tên chữ mã trong giao tiếp hàng ngày, nhưng trong các văn bản địa lý, lịch sử hay văn hóa quan trọng, cái tên thực luôn được nhắc tới đầu tiên. Chữ tên mã tiếng Latinh thông thường được dùng trên những bảng tên tàu. Chữ đại diện cho đảo san hô và tên cho hòn đảo.

Mỗi đảo san hô nằm dưới quyền quản lý của một Chúa đảo (Atholhu Veriyaa) do Tổng thống chỉ định. Bộ Quản lý Đảo san hô và các Văn phòng Miền bắc và Miền nam, Các Văn phòng Đảo san hô và Các Văn phòng Đảo chịu trách nhiệm trước Tổng thống về việc Quản lý Các Đảo San hô. Lãnh đạo hành chính của mỗi đảo là Đảo trưởng (Katheeb), do Tổng thống chỉ định. Đảo trưởng thuộc quyền quản lý của Chúa đảo.

Việc sử dụng những cái tên mã chữ đã là nguyên nhân gây ra nhiều sự hiểu lầm và lẫn lộn, đặc biệt với người nước ngoài. Nhiều người đã cho rằng chữ tên mã hành chính của đảo san hô là tên mới của nó và đã thay thế cho tên địa lý. Trong trường hợp như thế rất khó để biết cái tên thực được sử dụng là tên nào.

Địa lý

Maldives giữ kỷ lục là quốc gia phẳng nhất thế giới, với độ cao trung bình tự nhiên của lãnh thổ chỉ là 2.3 m (7½ ft), dù ở những nơi có các công trình dây dựng mức này cao hơn vài mét. Trong thế kỷ qua, mực nước biển đã tăng khoảng hai mươi centimét (8 in). Đại dương dường như đang tiếp tục tăng cao và điều này đe doạ sự tồn tại của Maldives.

Ngôn ngữ và văn hóa

Văn hóa Maldives xuất xứ từ một số nguồn, quan trọng nhất là những nét tương đồng của nó với các nền văn hóa ven các bờ biển Sri Lanka và nam Ấn Độ. Vì thế, theo quan điểm nhân loại học, dân cư chủ yếu là sự lai tạp Indo-Aryan, Dravidian và Semitic.

Ngôn ngữ chính thức và phổ thông là Dhivehi, một ngôn ngữ Indo-European có một số điểm tương đồng với Elu, ngôn ngữ Sinhalese cổ. Ký tự viết hiện nay được gọi là Thaana và được viết từ phải sang trái. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong thương mại và dần trở thành một ngôn ngữ trung gian trong giảng dạy tại các trường học của chính phủ.

Nguôn ngữ có nguồn gốc Indo-Iranian Sanskritic, cho thấy một ảnh hưởng muộn từ phía bắc tiểu lục địa. Theo các truyền thuyết, triều đại vua cai trị vùng đất này trong quá khứ có nguồn gốc tại đó.

Du lịch

Sự phát triển du lịch đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tổng thể nền kinh tế đất nước. Ngành này đã giúp việc sử dụng trực tiếp và gián tiếp nguồn nhân lực cũng như tạo ra các cơ hội thu nhập trong những ngành công nghiệp liên quan khác. Ngày nay, du lịch là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho đất nước, đóng góp 20% GDP. Với tám mươi bảy khu du lịch đang hoạt động, năm 2006 467.154 du khách đã tới đây.


Tôn giáo

Trong một thời gian dài của giai đoạn lịch sử Maldives, Phật giáo được xem là quốc giáo. Đến thế kỷ 12 các thương nhân Hồi giáo đã mang đến nước này Hồi giáo Sunni. Maldives cải sang đạo Hồi giữa thế kỷ 12. Hiện nay Hồi giáo Sunni là tôn giáo chính thức của toàn dân, việc tuân thủ nó là điều bắt buộc với công dân.

https://www.dulichcongvu.com/du-lich-cong-hoa-maldives-c57.html

Hiển thị thêm danh sách tour »

Đăng ký nhận bản tin

Để nhận thông tin khuyến mại mới nhất.